Bối cảnh Vụ ám sát Đại vương công Franz Ferdinand

Theo Hiệp ước Berlin năm 1878, Áo-Hung được phép chiếm đóng và cai quản Vilayet Bosnia của Ottoman, trong khi Đế quốc Ottoman giữ chủ quyền chính thức. Cũng theo hiệp ước này, các đại cường quốc (Áo-Hung, Vương quốc Anh, Pháp, Đế quốc Đức, Đế quốc NgaÝ) chính thức công nhận Công quốc Serbia là một quốc gia độc lập, và bốn năm sau sẽ trở thành một đế quốc dưới sự cai trị của Hoàng tử Milan IV Obrenović hay Vua Milan I của Serbia. Trong thời gian này, các vua của Serbia, tất cả đều thuộc Vương tộc Obrenović vốn có quan hệ thân thiết với Áo-Hung, hài lòng với biên giới mà hiệp ước đã đặt ra.[1]

Điều này thay đổi vào tháng 5 năm 1903, khi mà các sĩ quan Serbia, dẫn đầu bởi Dragutin Dimitrijević, xông vào Cung điện Hoàng gia Serbia. Sau khi chiến đấu ác liệt trong bóng tối, những kẻ tấn công bắt giữ Tướng Laza Petrović, người đứng đầu Vệ binh Cung điện, và ép ông tiết lộ nơi ẩn náu của Vua Alexander I Obrenović cùng vợ là Hoàng hậu Draga. Cuối cùng, vị vua bị bắn ba mươi lần còn hoàng hậu bị bắn mười tám lần. MacKenzie viết rằng "thi thể hoàng tộc bị lột hết quần áo rồi chém tơi tả".[2] Những kẻ tấn công ném xác của Vua Alexander và Hoàng hậu Draga khỏi cửa sổ cung điện, chấm dứt mọi nỗ lực phản công của những người trung thành".[3] Tướng Petrović sau đó bị giết khi Vojislav Tankosić tổ chức thảm sát những anh em của Hoàng hậu Draga.[4] Những kẻ chủ mưu đưa Peter I của Vương tộc Karađorđević lên cầm quyền.[4]

Chế độ mới đề cao chủ nghĩa dân tộc hơn, thân với Nga và ít thân với Áo-Hung hơn.[5] Trong thập niên tiếp theo, khi Serbia xây dựng lực lượng và dần chiếm lại vị thế đế quốc thể kỷ 14 của mình, tranh chấp giữa Serbia và láng giềng nổ ra, bao gồm tranh chấp hải quan với Áo-Hung đầu năm 1906 (thường gọi là "Chiến tranh Lợn");[6] khủng hoảng Bosnia năm 1908–1909, trong đó Serbia phản đối việc Áo-Hung sáp nhập Bosnia-Herzegovina (Serbia phải chấp nhận mà không được chi trả vào tháng 3 năm 1909);[7] và hai cuộc chiến tranh Balkan năm 1912–1913 với Serbia giành MacedoniaKosovo từ Đế quốc Ottoman và đánh đuổi Bulgaria.[8]

Những thắng lợi quân sự và sự giận dữ của Serbia đối với việc Áo-Hung sáp nhập Bosnia-Herzegovina đã khích lệ những người theo chủ nghĩa dân tộc Serbia và người Serb ở Áo-Hung vốn bị áp bức,[9][10] trong đó có hội chủ nghĩa dân tộc Serbia Narodna Odbrana, thành lập tại Belgrade ngày 8 tháng 10 năm 1908 theo chỉ dẫn của Milovan Milovanović. Dưới lớp đậy hoạt động văn hóa, tổ chức đặt mục tiêu gây hiềm khích giữa người Serb ở Áo-Hung với triều đại Habsburg.[11][12] Trong 5 năm trước 1914, những sát thủ đơn lẻ – phần lớn là công dân Serb của Áo-Hung – thực hiện một số vụ ám sát bất thành các viên chức Áo-Hung tại Croatia và Bosnia-Herzegovina.[13] Tại Bosnia-Herzegovina, một phong trào cách mạng địa phương nở rộ với tên gọi Thanh niên Bosnia, với mục đích là sự tan rã của đế quốc Áo-Hung.[14][15]

Ngày 3 tháng 6 năm 1910, Bogdan Žerajić, thành viên của phong trào Thanh niên Bosnia, ám sát thống đốc Áo của Bosnia-Herzegovina, Tướng Marijan Varešanin.[15] Žerajić là một người Serb Chính thống giáo 22 tuổi từ Nevesinje, Herzegovina, và từng theo học tại Khoa Luật của Đại học Zagreb và thường xuyên đến Belgrade.[16][17] Žerajić bắn Varešanin năm phát rồi ghim một viên đạn cuối cùng vào đầu mình đã trở thành nguồn cảm hứng cho những sát thủ tương lai, bao gồm Princip và đồng phạm Čabrinović. Princip nói "Žerajić là hình mẫu đầu tiên của tôi. Khi mười bảy tuổi tôi dành cả đêm ở mộ anh, nghĩ về tình cảnh khốn khổ của ta rồi nghĩ về anh. Ở đó tôi đã quyết định sớm muộn gì cũng sẽ gây ra một vụ bất bình".[18]

Tháng 5 năm 1911, hội kín Bàn tay đen được thành lập với mục tiêu xây dựng một Đại Serbia bằng "hoạt động khủng bố", gồm những thành viên chủ chốt của Narodna Odbrana, bao gồm Dimitrijević và Tankosić.[19][20] Tại Bosnia-Herzegovina, mạng lưới của cả Bàn tay đen và Narodna Odbrana xâm nhập vào những phong trào cách mạng địa phương như Thanh niên Bosnia.[15]

Năm 1913, Hoàng đế Franz Joseph ra lệnh Thái tử Franz Ferdinand theo dõi các cuộc diễn tập quân sự dự kiến diễn ra ở Bosnia tháng 6 năm 1914.[21] Kết thúc diễn tập, Ferdinand và vợ dự lên kế hoạch tham quan Sarajevo và khánh thành một bảo tàng quốc gia mới ở đó.[22] Theo lời kể của người con trai cả, Công tước Maximilian, Nữ công tức Sophie đi theo chồng vì lo sợ cho sự an toàn của ông.[23]

Mặc dù thuộc giới quý tộc, Sophie không thuộc gia đình vương giả, do đó cô chỉ có thể cưới người kế thừa nhà Habsburg qua quý tiện kết hôn. Hoàng đế Franz Joseph đồng ý hôn nhân của hai người với điều kiện con họ sẽ không bao giờ kế vị. Kỷ niệm ngày cưới lần thứ 14 của cả hai rơi vào ngày 28 tháng 6. Sử gia A. J. P. Taylor nhận xét:

Ảnh chụp Thái tử cùng vợ đi ra từ Tòa thị chính Sarajevo để lên xe, vài phút trước vụ ám sát

[Sophie] sẽ không bao giờ có được chức vị [của Franz Ferdinand]... không bao giờ có được hào quang của ông, không bao giờ được ngồi cạnh ông trước công chúng. Có một lỗ hổng... vợ ông có thể được công nhận chức vị trong lúc ông tham gia hoạt động quân sự. Do đó, năm 1914, ông quyết định thị sát quân đội ở Bosnia. Ở đó, tại thủ đô Sarajevo, Thái tử cùng vợ có thể ngồi bên nhau trên chiếc xe ngựa mở... Có thể nói, vì tình yêu mà Thái tử đã đi đến cái chết của mình.[24]

Franz Ferdinand ủng hộ thiết chặt chế độ liên bang và được cho là mong muốn chế độ tam bang, trong đó Áo-Hung hợp nhất những vùng đất Slavic trong đế quốc thành một nước thứ ba.[25] Một vương quốc Slav có khả năng ngăn chặn mong muốn khôi phục lãnh thổ Serb, khiến Franz Ferdinand bị coi là mối đe dọa với những người này.[26] Princip sau này nói trước tòa rằng một trong những động cơ của anh là ngăn chặn kế hoạch cải tổ của Franz Ferdinand.[27]

Ngày diễn ra vụ ám sát, 28 tháng 6 (15 tháng 6 trong lịch Julius), là lễ hội Thánh Vitus. Tại Serbia, ngày này được gọi là Vidovdan và ăn mừng chiến thắng Kosovo trước đế quốc Ottoman năm 1389, trong đó Hoàng đế Ottoman bị một lính Serb giết khi ở trong lều.[28] Princip, Čabrinović và những hội viên của Thanh niên Bosnia lấy cảm hứng từ vị anh hùng Miloš Obilić, tái hiện Huyền thoại Kosovo.[29][30][31] Čabrinović đặc biệt đắm chìm đến huyền thoại này, tự coi mình như một người anh hùng Kosovo, còn Princip thì thuộc toàn bộ Vòng hoa núi của Petar II Petrović-Njegoš, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất thi ca Nam Slav, khắc họa lý tưởng anh hùng và tinh thần quả cảm của huyền thoại Kosovo.[32]